Liên quan đến vụ việc "Giấy hợp tác làm ăn hay hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất?" mà PLO từng thông tin, ông Đinh Văn Hoành cho biết đã gửi đơn đến Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng VKSND Tối cao đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm số 03/2025/DS-ST của TAND huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk và Bản án phúc thẩm số 213/2025/DS-PT của TAND tỉnh Đắk Lắk.
Ông Hoành là nguyên đơn trong vụ tranh chấp hợp đồng giao khoán, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) với bị đơn là ông T (cùng ngụ tại TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk).

Theo ông Hoành, bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm lần 2 và trước đó là Quyết định giám đốc thẩm số 60/2022/DS-GĐT của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã căn cứ vào tiểu mục 2.3, mục 2 phần II Nghị Quyết số 02/2004 ngày 10-8-2004 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao để công nhận việc chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Hoành và vợ chồng ông V.
Tuy nhiên, điều kiện đầu tiên để áp dụng tiểu mục 2.3, mục 2 phần II Nghị Quyết số 02/2004 là giao kết giữa hai bên phải là hợp đồng chuyển nhượng. Trong trường hợp này giấy cam kết hợp tác làm cao su lập ngày 27-5-1994 giữa ông Hoành và ông T về hình thức và nội dung không có bất cứ chữ nào ghi là hợp đồng hoặc chuyển nhượng đất.
Ngược lại, giấy cam kết lại có nội dung rất rõ ràng là hợp tác làm ăn trồng cây cao su và là căn cứ để hai bên sau đó phân công công việc, phân chia tiền đầu tư, chia sẻ lợi nhuận. Giấy cam kết không phải là có nội dung mập mờ để dẫn đến việc hiểu nhầm, do đó việc cho rằng đây là hợp đồng chuyển nhượng chỉ là suy diễn.
Ngoài ra, vợ chồng ông V (người liên quan) và ông T cùng khai ông Hoành bán đất cho ông T nhưng lúc đó điều kiện hoàn cảnh gia đình nên ông T đã bán lại lô cao su cho ông V. Vậy giữa ông Hoành với vợ chồng ông V không tồn tại hợp đồng thì căn cứ vào đâu để yêu cầu công nhận hợp đồng giữa hai bên?
Cạnh đó, cùng một tờ giấy cam kết hợp tác làm cao su nhưng tòa cấp sơ thẩm (lần 2) vừa chấp nhận yêu cầu tuyên vô hiệu giấy này lại vừa chấp nhận yêu cầu công nhận giấy này. Cụ thể, HĐXX đã tuyên bố giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su giữa ông Hoành và ông T vô hiệu. Đồng thời, toà công nhận việc chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Hoành và vợ chồng ông V.
Cũng theo ông Hoành, tòa án cấp sơ thẩm có sai phạm trong việc áp dụng văn bản pháp luật để giải quyết vụ án. Cụ thể, tòa án cấp sơ thẩm (lần 2) áp dụng BLDS năm 2015 để làm căn cứ tuyên giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cao su vô hiệu là sai quy định pháp luật. Vì sự kiện diễn ra và phát sinh năm 1994 nên phải áp dụng văn bản pháp luật tại thời điểm xác lập sự kiện là Pháp lệnh về hợp đồng dân sự năm 1991 của Hội đồng nhà nước.
Cũng theo ông Hoành, mảnh đất tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng ông Hoành. Thế nhưng, tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm (lần 2) không đưa vợ ông Hoành vào tham gia tố tụng là trái quy định.
Một điểm đáng chú ý nữa là tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm (lần 2) đã không tiến hành khảo sát thẩm định giá đất và giá trị đầu tư trên đất vào năm 1994 dẫn đến không phân biệt được 5 chỉ vàng là tiền đầu tư hay tiền chuyển nhượng cũng không xem xét lúc đó trên đất ông Hoành đã đầu tư những gì...
Từ đó, ông Hoành đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm và huỷ bản án phúc thẩm của 2 cấp toà tỉnh Đắk Lắk.
2 lần thắng kiện rồi lại thua
Như PLO đã phản ánh, năm 1994, ông Đinh Văn Hoành ký hợp đồng liên kết với công ty cao su tỉnh Đắk Lắk để trồng cây cao su…
Ngày 27-5-1994, ông Hoành và ông T ký giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su. Ông T đã đưa cho ông Hoành 5 chỉ vàng, đây là ½ tiền công của ông Hoành đầu tư thêm trong năm 1993 (xây bờ rào, bù thêm công đào hố...).
Sau khi ký kết hợp đồng, ông T không làm mà cho vợ chồng ông V (em ông T) canh tác và quản lý.
Do sau đó, ông T không trả đất nên ông Hoành khởi kiện yêu cầu ông T có nghĩa vụ thanh lý hợp đồng hợp tác làm cao su, đồng thời trả lại đất cho ông Hoành.
Trong khi đó, phía ông T và vợ chồng ông V lại cho rằng ông Hoành đã bán lại cho ông T 50% diện tích đất trồng cây cao su. Lúc đó, do không có điều kiện làm nên ông T đã chuyển giao lại cho vợ chồng ông V...
Xử sơ thẩm tháng 1-2022, TAND huyện CưMgar chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoành, buộc ông vợ chồng ông V trả lại một phần diện tích đất (hơn 3ha) cho ông Hoành...
Vợ chồng ông V kháng cáo. Xử phúc thẩm tháng 5-2022, TAND tỉnh Đắk Lắk bác kháng cáo của vợ chồng ông V...
Sau đó, Viện trưởng VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị hủy cả 2 bản án và TAND Cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị này.
Xử sơ thẩm lần 2 vào tháng 1-2025, TAND huyện CưMgar tuyên ngược lại với bản án sơ thẩm lần đầu, không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Hoành..
Ông Hoành kháng cáo. Xử phúc thẩm lần 2 vào tháng 5-2025, TAND tỉnh Đắk Lắk không chấp nhận kháng cáo của ông Hoành, giữ nguyên bản án sơ thẩm.